ÁNH LINH ĐIỆN ĐIỆN (6)

Ánh  Sáng  Linh  Điện  (tt)

Light in the Sanctuary - G. Hodson

 Xem Ánh Sáng Linh Điện các bài trước

Có đủ điều kiện là đã thắng hơn phân nửa trận chiến, nhất là khi bạn mong có được trợ giúp từ nguồn vô hình bên ngoài. Tôi có thể nói rằng nếu bạn có thể tạo điều kiện và động cơ có tính vị tha cao độ thì sự trợ giúp ấy sẽ tới. Bạn dễ có kết quả tốt đẹp với trợ giúp ấy hơn là khi không có nó, ở giai đoạn này của sự phát triển khả năng tâm linh trong nhóm …
‘Không một nhóm nghiên cứu nào đầy đủ, khi trong đó chưa có người có khả năng dùng thông nhãn mà thức tỉnh trọn vẹn. Thời đại có vấn linh oracle sẽ trở lại khi bạn xây dựng đền đài thích hợp (không phải làm bằng tay), làm nơi cho người này có thể được lắng nghe. Thiêng liêng bay lượn gần trên nhân loại bị tàn phá vì chiến trận. Chỉ có nghiên cứu khoa học mới cho ra phương tiện thích hợp trong thời hiện đại. Phái có một Blavatsky mới được cho ra; tôi (người khách đang nói) là một học trò cũ người Ý của bà.’
(Xin đọc thêm đoạn ghi tháng giêng 1977)

19 - 4, 1923
Nếu một lý tưởng được trưng ra cho linh hồn như là chuyện có thể đạt được, mà không được chấp nhận và không có gắng sức để đạt tới và biểu lộ nó, kết quả là có sự mất đi năng lực của linh hồn. Lời khuyên được hỏi xin và nhận lãnh mà không làm theo, biến thành trở ngại và nguồn cho sự yếu đuối. Karma của việc không đi theo Ánh sáng khi thấy nó là bóng tối, và của việc không làm theo lời khuyên được đưa ra, là việc không thể nhận thêm lời khuyên và làm theo nó.

30 August 1923
Lời Kêu Gọi đi London
Harold Baillie-Weaver bảo đảm 400 £ / năm , không có điều kiện hay giới hạn nào, cho Jane và tôi nếu chịu đi London để chữa bệnh. Sau rốt phép lạ đã tới ! Mong sao chúng tôi luôn xứng đáng.
Từ nay và mãi mãi tôi phải tận hiến mình, và không thể rút lại cho việc phụng sự nhân loại.  

1 May 1923
Cho Người Chí Nguyện
Hãy khiến các thể thấp của bạn có tình trạng như của người đệ tử. Hào quang được thanh khiết là sự quan trọng hàng đầu. Bạn phải không được có tư tưởng, cảm xúc, lời nói hay hành động nào không hoàn toàn trong sạch. Bạn phải không nhìn hay nghe điều không trong sạch. Bạn phải không đọc chuyện không trong sạch hay ngay cả chuyện tội phạm; những chuyện này từ nay trở đi không có chỗ trong con người bạn trừ phi là để cho công việc. Chỉ khi ấy bạn mới có thể đi tìm và hỏi xin năng lực của Chân Sư mà không sợ phạm thánh.

Ghi chú:
Ta nên biết ý này chỉ có tính tương đối, và cần xem thêm ý người khác rồi lựa chọn điều thích hợp cho mình, như Krishnamurti thích đọc chuyện trinh thám bắn giết, xem phim cao bồi viễn Tây chết chóc máu chẩy (sốt cà chua) tùm lum; ông xem phim Hitchcock kinh dị, hãi hùng đầy những cảm xúc mạnh để giải trí (khi tới đoạn một người nhận trả công 1.000 dollar để hạ sát kẻ khác, triết gia can gián:
- Đừng, ông đừng nhận, 1.000 dollars rẻ quá.)
và trong bài Đọc Sách: Rudi (tìm trong Danh Mục trên trang web PST) vị thầy kêu trò đọc chuyện của Agatha Christie, là chuyện luôn có án mạng. Vị khác là Yogananda cũng thích xem phim kinh dị.
Lại nữa, tác giả nặng lòng sùng tín, và thiên về việc lập hạnh hơn là những điều khác. Có lẽ do vai trò của ông là tiếp xúc với quảng đại quần chúng để trình bầy MTTL, nên ông trưng ra các ý này, vì đó là những ý dễ hiểu, những bước đầu tiên trên đường Đạo dễ cho công chúng chấp nhận hơn hết.
Ta cần giữ khuynh hướng và con người của tác giả trong trí khi đọc sách, để hiểu đúng tầm mức lời của ông, và không nhất thiết xem những gì ông viết ở đây là khuôn vàng thước ngọc, đáng nghe theo không bàn cãi. Điều gì ông cho là quan trọng thì nó là vậy đối với ông, mà chưa hẳn là vậy, hay đúng, hay cần, cho người có nhu cầu và mục tiêu, tầm nhìn khác.

24 May 1923
Ba Mức Tâm Thức
(Chân thần, Chân nhân và Phàm nhân)

● Chân thần
Cái Ngã thật, Nhà của ta, Ngã thức rực rỡ và tự do. Ta ít khi tiếp xúc với nó vào mức tiến hóa hiện nay của mình; vào những cơ hội trọng đại trong kiếp của ta, một tia của tâm thức Chân thần xuyên qua những cõi thấp nâng phàm nhân lên cõi Chân nhân và soi sáng cái sau. Những dịp như vậy là như khi gia nhập Hội Theosophia, nhận sự hướng dẫn của một vị thầy tinh thần, hôn nhân nếu đó là sự hòa hợp chân thực của hai linh hồn, được thấy Chân Sư lần đầu tiên, và thỉnh thoảng trong lúc tham thiền.
Mục đích của việc đọc chú ngữ mantram của yoga là để có được sự tiếp xúc này, hầu đời sống cá nhân của ta có thể được nâng cao lên mức Chân nhân và sự tham thiền lên mức Chân thần.
Hãy xem Chân thần như Cha, và liên tục ước nguyện và hướng về ngài. Có nỗ lực đều đặn và rõ ràng để vun trồng tâm thức Chân thần, ngay cả khi không tới được ngài, ta cũng nâng cao mình khi cố gắng như thế, và nỗ lực nhắm tới Atma có thể đi tới Thượng trí hay ngay cả Buddhi. Sự việc phần lớn là kiên trì gắng sức và liên tục định trí.
Tư tưởng là phương tiện sẵn có trong tay ta. Hãy thực sự đưa tư tưởng lên cao - luôn luôn lên cao - cho đến khi nó thành tự động và tư tưởng liên tục hướng về mức cao nhất ta biết.
Câu hỏi thì hầu như có tính máy móc. Vậy bao nhiêu năng lực tư tưởng liên tục và nhắm theo đúng hướng sẽ cho ra kết quả tương ứng không tránh được.
động lực chân chính là điều quan trọng hơn hết, với những câu hỏi về huyền thuật thực tiễn bên trong - là áp dụng cho chính mình.
● Chân nhân phải dần dần thay cho phàm nhân, ấy là công việc ngay bây giờ của ta. Hãy học liên tục sống ở mức tâm thức Chân nhân. Đây là bí quyết của khả năng và sự thành đạt của vị cao cả. Việc tiếp tục công việc khó nhọc chỉ có thể làm được khi có tâm thức Chân nhân; bởi thể xác và phàm nhân không chịu nổi sự căng thẳng.
● Phàm nhân. Đây là chính ta, như ta là trong đa số lúc mà không phải như ta là ở buổi họp chi bộ, E.S. hay những khi tâm hồn nâng cao, nhưng là ta khi ở nhà, chỗ xã giao, đi chơi nghỉ hè, và trong đời sống thường nhật. Ta thoải mái, để ba thể muốn làm gì làm với ta; ta nói bâng quơ, tào lao, ba điều bốn chuyện.

27 May 1923
Jane và tôi đang trên đường về nhà sau cuộc đi dạo buổi tối. Tôi thấy một deva bay ngang qua trên đầu, có vẻ như ở mức song song với mức cao trên đường Đạo. Ngài hoàn toàn có mầu trắng, hào quang là sắc trắng lấp lánh của tuyết. Gương mặt ngài từ hòa và xinh đẹp, biểu lộ nhiều nhân tính và lòng thương hơn một số deva khác tôi đã gặp. Có gì đó trong dáng vẻ của chúng tôi làm ngài chú ý và ngài lượn lờ trên đầu hai tôi. Tôi đoán ngài ở vùng bắc cực tới. Thấy như ngài nói những điều sau:
– Tôi từ phương bắc đến, từ vùng tuyết mênh mang và những cánh đồng băng giá, và trên đường qua hướng tây. Tôi là một trong các sứ giả của Bắc Thần. Ở đó sự sống cũng đang lớn mạnh, như nhiều người nơi ấy. Cầu xin ân lành của Chư Thần đến với bạn, mong sao cho ánh sáng chiếu quanh bạn cũng chiếu sáng ai quanh bạn như tôi tuôn rải xuống bạn. (Ông Hodson vừa dự lễ nhà thờ về).
Rồi khi ấy thiên thần hạ xuống cho tới khi hào quang của ngài bao phủ chúng tôi, và tuôn lực xuống chúng tôi, tay làm cử chỉ giúp cho việc tuôn chẩy, lập lại nhiều lần. Bàn tay ráp lại đằng trước ngực rồi tách ra thành cử chỉ gọn ghẽ đi xuống và ra ngoài. Ảnh hưởng của nó cho chúng tôi là như có điện giật. Làn tuôn chẩy của hào quang rất giống như áo trắng bay phất phơ, còn đường tỏa lực như đôi cánh thì không rõ nét lắm.
Cách nói chuyện và hào quang sáng rỡ hết sức linh hoạt rõ ràng của loài thiên thần, còn hình dạng chung, nét biểu lộ, và sự ‘cảm biết’ thì có nhân tính rất nhiều hơn bình thường gặp nơi một số thiên thần, mà tôi có đặc ân được tiếp xúc. Vị khách du hành dường như đi cùng chúng tôi một quãng về nhà, rồi theo đường của ngài về hướng tây.

15- November 1925
Harrogate, Yorkshire, Anh (Khi đi giảng cho xứ bộ Anh)
Tôi ‘mơ’ thấy cùng với Jane trong một ngôi nhà với Chân Sư Morya và Kuthumi và các bạn của hai ngài. Chân Sư nói với tôi về sức mạnh của tình thương và bảo rằng ngài tuôn rải tình thương của mình cho thế giới mỗi ngày. Tôi nói.
– Ngài có thể bao trùm thế giới với tình thương của ngài - sức mạnh, hiểu biết và tình thương để cứu thế gian.
Ngài mỉm cười có chút ngượng nghịu. Tôi nói là có cám nhận ân phước ban xuống trong ngày và hỏi có phải ngài gửi đến. Ngài đáp.
– Ấy là chuyện riêng !
Ngài cho phép tôi ngồi gần ngài và tôi cảm thấy một niềm hạnh phúc không giải thích được, và sự hân hoan ngập lòng là được ở gần ngài.

Một lúc ngắn sau khi được Chân Sư Kuthumi nhận vào hàng Dự Bị Probation, tôi có kinh nghiệm sống động là lại đến thăm ngài trong lúc ở ngoài thể xác. Ngài ngồi trong căn phòng dài trong nhà của mình với vài đệ tử nhỏ thoải mái ở quanh ngài. Khi đến, tôi có đặc ân to lớn là được cho ngồi trên cái gối cao gần ngài ở bên trái Chân Sư, và ngài nói với tất cả bọn tôi.
Cơ thể thức giấc làm tôi một vắng mặt một lúc ngắn. Rồi nó ngủ trở lại và tôi lập tức quay về phòng của ngài và có đặc ân cho ngồi chỗ y như trước gần Chân Sư, khi ngài ra dấu bằng nụ cười và cái nhìn thân thiện. Nó khiến tôi tràn ngập niềm vui, và vẫn cảm thấy vậy khi bây giờ nhớ lại.
Có nhiều gối mầu để quanh phòng, và tôi cảm nhận một phần của kiến trúc nhà. Sau đó tôi ra về và thấy mình ở trên đèo cao của núi tuyết phủ, bên dưới có một thung lũng sâu. Một lama mũ đỏ (tà thuật, khác với lama mũ vàng thuộc chính đạo) ở dưới đó đi lên tới gần tôi và nói.
– Anh là chàng trai trẻ rất lạ lùng. Dưới kia chúng tôi có nhiều điều thích thú cho anh.
Khi ông nói tôi nhận ra là cả ông và ‘trung tâm’ của ông thuộc tà đạo, và ông quyến rũ tôi với hứa hẹn về kinh nghiệm tâm linh v.v. Tôi dại dột, tôi nghĩ, làm dấu thánh giá mạnh mẽ bên trên và qua ông. Điều này chọc giận lama và ông nói.
– Anh làm nữa thì biết tay tôi.
Tôi ngu ngốc làm vậy và trong một lúc bị tê liệt hoàn toàn. Tuy nhiên tôi dùng một phương pháp mà bà Mary de Middledon đã dạy lập tức làm tôi thoát ra ngay, và tôi chạy thục mạng qua Á châu với Âu châu hết sức mau lẹ để về thân xác đang ngủ ở Harrowgate, Yorkshire, Anh, nơi tôi đến để giảng. Lama đuổi theo tức giận nhưng tôi về được nhà bình yên, và thức dậy run rẩy với trọn diễn tiến vẫn còn rõ trong trí mình.

1929 - 1940
Bắt Đầu Đi Quanh Thế Giới
(Phần lớn tài liệu do ông nghiên cứu bằng thông nhãn vào những năm cuối thập niên 1920 nằm trong các sách về thiên thần và những sách khác thuộc giai đoạn này.)

20 Nov 1932
Sau buổi giảng chót ở New York, trong đêm nhớ là đứng trước Chân Sư Morya và Kuthumi, Vị sau ngồi và Vị trước đứng bên trái ngài. Có thảo luận về việc làm ở Hoa Kỳ và thẩm định vô tư; lời khuyến khích cho tương lai được đưa ra, chúng tôi được xem như là sứ giả du hành mang thông điệp TTH.

Đầu thập niên 1930
Thăm Trở Lại Borobudur

Trong chuyến thuyết giảng ở Java năm 1933, chúng tôi đến thăm ngôi đền Phật giáo vĩ đại gọi là Borobudur. Tôi nhận ra sự hiện diện của một deva cao cả trụ trì nơi đây - một đấng rất cao quí - và do vậy làm ra hai bài thơ, chúng được đăng trên báo The Theosophist trong năm 1934. Gần đây có thu xếp cho chúng tôi trở lại thăm đền này, và lại được ngài chào đón; chúng tôi tìm cách thấy được hình dạng ngài để mô tả cũng như để nhận minh triết của ngài.
Thiên thần hiện ra với tôi, nhã nhặn xuống thấp tới mức của tôi và thấy Deva vĩ đại này có nam tính rõ rệt, gương mặt mang vẻ Ấn-Âu thật đậm nét. Có vẻ ngài là Deva theo đường Minh Triết vì ánh sáng vàng của Buddhi tỏa sáng khắp quanh ngài, chiếu xuyên qua những bầu tiếp nhau mầu hồng nhẹ, lục nhẹ, và trắng chóa mắt, là những mầu chính yếu trong hào quang ngài.
Tất cả những mầu người quang phổ đều có trong hào quang của Thiên thần, nhưng các mầu ghi trên thấy như chiếm phần lớn. Một làn lửa trắng bung ra có lẫn mầu vàng bao quanh thân hình ngài, rồi có một bầu lớn mầu vàng và theo sau nó là những bầu mầu khác, trọn hình ảnh phô bầy tính chất của mầu và sự chói lọi của trời chiều rực rỡ.
Những tia mầu trắng, như tia sáng đèn rọi, túa ra từ thân ở giữa, thấy như xuất phát từ quả tim. Một số những tia này chiếu lên, số khác chiếu ngang qua Java ra biển bên ngoài, nhiều tia nữa đi sâu vào lòng đất, tỏa rộng từ thân đi ra.
Tất cả mọi sự sống trải ra xa nhiều dặm, nhất là sự sống thiên thần, được ánh sáng và sức mạnh này của Deva tại Borobudur thúc đẩy. Tôi nghĩ ngài đứng đầu sự sống deva trên đảo cũng như vùng biển chung quanh, quả thực là một Đại Vương thiên thần. Thỉnh thoảng có một ngôi sao bạc lóe sáng trên đầu ngài, và nhiều lực hung mạnh, trắng và vàng, như lưỡi hửa hình cánh hoa đưa qua lại dưới chân, như thể ngài đứng giữa một hoa sen lớn bằng lửa.
Bên trong hào quang ở giữa là một hình tư tưởng của đức Phật, ở tư thế ngồi thiền định. Nó là vận cụ, ở mức hạ trí, cho sự sống của ngài mà qua đó vị Deva có vẻ tham thiền bất tận. Tiếp xúc với tâm thức của đấng Cao Cả này gợi ra các ý sau, làm như ngài giảng cho tất cả người chí nguyện một bài pháp ngắn về sự giác ngộ và đường Đạo.
– Tuy đối với con người việc được giác ngộ xem ra xa vời, nhưng trong những cõi vượt sự cầm giữ của thời gian, sự giác ngộ cho tất cả có ở đây và bây giờ, bên trong họ như một sự kiện sống thực, một sức mạnh thành đạt.
Thế thì bên trong cái Ngã nguyên thủy của bạn, cũng như bên trong các tháp stupa này mà bạn thấy có một vị Phật, thành hình trọn vẹn tuy được che dấu. Bí ẩn cho sự giác ngộ của chính bạn là sự hiện diện của vị Phật sắp thành này trong lòng. Khi bạn phải nhìn vào bên trong hình dạng của stupa này, hãy nhìn xuyên qua lớp vỏ bên ngoài, để với con mắt của tư tưởng và ý chí, nhìn sâu vào trong và cảm nhận cái minh triết được thể hiện là chính bạn, vị Phật mà bạn chính là trong cõi vô thời gian, và sẽ thể hiện trong những cõi của thời gian.
Hãy giữ tia nhìn của linh hồn trụ vào vị Phật nguyên mẫu này. Hãy suy gẫm ngày đêm, hẳng giờ trước sự hiện diện của ngài, cho tới khi tư tưởng và ý chí hợp lại sinh ra trong con người ở ngoài vị Phật là con người bên trong của bạn. Lúc ấy hãy để trí tưởng tượng bay cao vào Phật tính của mình. Hình dung mình như đang sống đời đức Phật, đi lại giữa những người chung quanh như Phật đã làm. Hãy thực hành điều ấy với ý chí và tư tưởng không thay đổi, cho tới khi cả hai sinh ra trong bạn vị Phật sống động.
Như thế sẽ tới lúc thời gian ngưng cầm giữ bạn. Như thế sẽ tới lúc tương lai hòa lẫn vào hiện tại, bạn đứng ở giữa, ý thức được cả hai như là hiện tại vĩnh cửu. Với quá khứ tôi khuyên bạn hãy quên, tiêu tan trọn vẹn, xóa bỏ khỏi trí, như cái dàn nay đã xong phận sự cho việc xây nhà được hạ xuống và biến mất. Quá khứ đã chết với bạn. Hiện tại và tương lai cũng biến mất tương tự vậy, khi bạn học sống nồng nhiệt trong sự trọn vẹn của hiện tại vĩnh cửu.
Thế giới đen tối, và có thể hóa đen tối hơn. Nhiều hiểm nguy đe dọa mạng sống, tiến bộ và hòa bình của con người; các lực đối nghịch tụ lại để sinh ra tranh chấp, điều có thể là tranh chấp lớn nhất và cuối cùng của những chiến trận xẩy ra trên địa cầu. Nếu sự sáng thắng trận, nếu tình huynh đệ và hòa bình toàn thắng, mà gần như chắc chắn sẽ vậy, thì những ai đối nghịch Luật Trời, tổ chức như là kẻ thù của nhân loại, sẽ gặp thất bại điều sẽ chấm dứt lòng thù ghét của đa số, sự tản bạo của đa số và sự thù nghịch của đa số với Sự Sáng. Từ đây về sau  Luật Trời sẽ thắng thế.
Phải chi bạn có thể thấy như chúng tôi thấy, đứng bên trên sự tranh chấp, tượng trưng cho Luật Trời, làm sao mỗi tư tưởng và hành vi có tính kết hợp của mỗi người, dù khiêm tốn nếu thành tâm, đóng phần quan trọng của nó - mà tôi sẽ nói là phần vĩ đại - trong việc mang lại chiến thắng cho Sự Sáng và Luật Trời, công việc của bạn sẽ được gợi hứng thêm, ý chí của bạn thêm nhiệt thành, niềm tin thêm nồng cháy, và cuộc đời của bạn sẽ thêm đầy sức mạnh.
Bởi vậy hãy tiến lên với sức mạnh thêm vào, với niềm hăng hái to lớn hơn, luôn có kỷ luật bản thân, quên mình khi phụng sự, sắp đặt, suy tính, làm việc cho Sự Sáng và trở thành Luật. Ân phước, hòa bình, sự mỹ lệ và sức mạnh của Borobudur đến với tất cả công việc của bạn.
Trong một dịp khác ngài nói:
– Bạn sẽ giúp dọn quang sương mù của vô minh và mê tín mà Java bị bao phủ, bằng cách làm trí não của tầng lớp khá hơn ý thức cái hại của việc sát sinh để cúng tế cho linh hồn quốc gia, và qua đó cho sức khỏe và phúc lợi của dân chúng; và cũng chỉ dạy họ về những sự kiện này. Giới chức giáo dục và hội viên hội Theosophia là các thành viên hứa hẹn nhất cho công việc như thế.
Nhóm các học viên huyền bí học khi kết hợp, có tổ chức và biết nhiều có thể trợ giúp lớn lao, bằng sinh hoạt thường xuyên và liên tục theo hướng đề nghị, và trong việc hằng ngày tỏa Sức Mạnh và Sự Sáng ra khắp đảo.
(còn tiếp)